Thư viện số CYQ » Tài liệu Thư viện số » Dược Lý Các Vitamin Tan Trong Dầu: Đại Cương Và Thuốc Cụ Thể
(162)
(3)
(0)
(0)
(0)
(24)
(4469)
(2)
Vitamin là một trong những chất thiết yếu cho hoạt động sống của cơ thể. Vậy cụ thể vitamin tan trong dầu cần thiết với cơ thể chúng ta như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Khi nhắc đến các vitamin tan trong dầu, thứ nhất chúng là các vitamin, thứ 2 là những chất này có đặc điểm tan trong dầu.
Như vậy, vitamin tan trong dầu là những hợp chất hữu cơ mà đa phần cơ thể chúng ta không tự tổng hợp được, chúng không tan trong môi trường nước, tan được trong dầu.
Những vitamin này được dùng với lượng rất nhỏ để đảm bảo cho sự phát triển và hoạt động bình thường của cơ thể.
Các vitamin tan trong dầu bao gồm các vitamin: A, D, E, K.
Hấp thu cùng với các chất mỡ vào vòng tuần hoàn chung, do đó khi cơ thể không hấp thu được mỡ thì sẽ không hấp thu được các vitamin tan trong dầu.
Trong quá trình hấp thu các vitamin này, cần phải có acid mật làm chất nhũ hoá vì mỡ không tan được trong máu. Vậy nên, muốn hấp thu tốt các vitamin này thì nên uống trong hoặc ngay sau bữa ăn.
Các vitamin tan trong dầu tương đối bền vững với nhiệt, không bị phá hủy trong quá trình nấu nướng.
Các vitamin tan trong dầu có thể được tích lũy ở gan và mô mỡ.
Do chúng được tích lũy trong cơ thể nên các triệu chứng thiếu thường xuất hiện chậm, vì vậy không cần bổ sung hàng ngày dưới dạng thuốc.
Vitamin là các chất thiết yếu cho sự sinh trưởng và hoạt động của cơ thể. Khi thiếu các vitamin tan trong dầu, khiến cho các hoạt động của cơ thể không còn khỏe mạnh và gây ra các bệnh như: khô mắt, quáng gà khi thiếu vitamin A, hay bệnh còi xương chậm lớn khi thiếu vitamin D, và nhiều bệnh khác cụ thể sẽ được nêu rõ ở phần dưới.
Khi dùng liều cao, kéo dài sẽ gây độc tính, cơ thể nhiễm độc, đặc biệt là vitamin A và D. Bởi vì khi quá liều, cơ thể sẽ không thể thải trừ hết qua thận, chúng sẽ tích lũy vào gan và các mô mỡ.
Vitamin A có nhiều trong cả động vật và thực vật.
Trong động vật thì vitamin A có nhiều trong gan cá thu, trứng, thịt, cá, sữa…
Ở thực vật, vitamin A xuất hiện nhiều trong gấc, cà chua, cà rốt và rau xanh. Trong rau quả, chúng tồn tại dưới dạng caroten (còn gọi là tiền vitamin A). Hiện nay, có 3 loại caroten là alpha caroten, beta caroten và gamma caroten, trong đó phổ biến nhất và có hoạt tính mạnh nhất là beta-caroten. Khi đưa vào cơ thể, dưới sự xúc tác của enzym carotenase, các caroten chuyển thành vitamin A.[1]
Hiện nay vitamin A còn được tạo ra bằng phương pháp tổng hợp hóa học.
Hoạt tính của vitamin A được xác định bằng đơn vị quốc tế.
1 đơn vị quốc tế bằng 0,3 microgam vitamin A hoặc 0,6 microgam beta-caroten.
Vitamin A hấp thu có thể được qua đường uống và tiêm. Tuy nhiên, cơ thể phải có đủ acid mật làm chất nhũ hoá thì vitamin A mới hấp thu qua đường tiêu hoá được. Khả năng liên kết của Vitamin A với protein huyết tương thấp, chủ yếu là alpha- globulin, chúng phân bố vào các tổ chức của cơ thể. Được dự trữ nhiều nhất ở gan, thải trừ qua thận và mật.
Với mắt
Vitamin A có vai trò quan trọng trong hoạt động thị giác, giúp mắt nhìn được trong điều kiện thiếu ánh sáng. Đó là do vitamin A giúp tạo ra sắc tố võng mạc. Đây cũng chính là tác dụng quan trọng nhất của vitamin A.
Cơ chế: Khi ở trong bóng tối vitamin A sẽ kết hợp với opsin hình thành nên sắc tố võng mạc có tên là rhodopsin. Đây là sắc tố nhạy cảm với ánh sáng có cường độ thấp ở tế bào hình nón của võng mạc, sẽ giúp mắt ta nhận được các hình ảnh trong điều kiện thiếu ánh sáng. Và khi ra ánh sáng, rhodopsin lại phân hủy giải phóng ra opsin và trans – retinal. Sau đó trans – Retinal lại chuyển thành dạng cis – retinal hoặc dạng trans – retinal và tiếp tục đi vào chu kỳ của sự nhìn. Do đó nếu thiếu vitamin A, khả năng quan sát trong bóng tối sẽ giảm, gây ra bệnh quáng gà, nếu như không điều trị kịp thời có thể dẫn đến nguy cơ mù lòa.
Trên biểu mô và tổ chức da
Vitamin A rất cần thiết cho quá trình biệt hoá ở các tế bào biểu mô ở da và niêm mạc. Kích thích biệt hóa tế bào biểu mô, sinh tăng tiết nhầy và ức chế sự sừng hóa ở tế bào biểu mô.
Nếu thiếu vitamin A, cơ thể sẽ giảm hoặc mất cơ chế bài tiết chất nhầy, đồng thời biểu mô bị teo lại, cùng với đó các lớp keratin dày, lên làm da trở lên khô, nứt nẻ và sần sùi. Ngoài ra, ở những người này còn tăng nhạy cảm với các chất gây ung thư. Không những thế, các tế bào nền của biểu mô tăng sản rõ rệt, giảm khả năng biệt hóa.
Trên xương: vitamin A và vitamin D, có vai trò quan trọng cho sự phát triển xương và tham gia vào quá trình phát triển cơ thể, đặc biệt là ở trẻ em. Do đó, nếu thiếu vitamin A thì trẻ em sẽ còi xương, chậm lớn.
Trên hệ miễn dịch: vitamin A làm tăng sức đề kháng của cơ thể với vi khuẩn, vi rút và ký sinh trùng. Khi thiếu vitamin A cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn và dễ nhạy cảm với tác nhân gây ung thư.
Ngoài ra, khi thiếu vitamin A còn dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp, tiết niệu, sinh dục.
Dự phòng và điều trị các bệnh do thiếu vitamin A như:
Chủ yếu gặp khi dùng liều cao hoặc dùng dài ngày.
Ngộ độc cấp tính: khi dùng liều rất cao. Người lớn với liều trên 1.500.000 IU mỗi ngày. Trẻ em với liều trên 300.000 IU mỗi ngày. Người bị ngộ độc có các biểu hiện sau: hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, nôn, kích thích, nhức đầu, mê sảng, co giật, tiêu chảy. Trẻ nhỏ có thể phồng thóp, co giật. Các triệu chứng thường xuất hiện sau khi dùng thuốc từ 4 – 6 giờ.
Ngộ độc mãn tính: khi dùng liều cao > 100.000 IU/ngày liên tục 10 – 15 ngày. Khi người bệnh bị ngộ độc mãn tính sẽ xuất hiện các triệu chứng như sau là: mệt mỏi, dễ bị kích thích, chán ăn, sụt cân, nôn, rối loạn tiêu hoá, sốt, gan to, lách to, da khô tróc vảy, rụng tóc, tóc, chảy máu, thiếu máu, nhức đầu, tăng calci máu, phù nề, đau nhức xương khớp.
Trẻ em có thể tăng áp lực nội sọ, ù tai, ngừng hoặc giảm khả năng phát triển xương dài, chậm lớn do các đầu xương bị cốt hoá quá sớm.
Phụ nữ có thai dùng liều cao, liên tục có thể gây quái thai.
Không dùng với những trường hợp thừa vitamin A và người mẫn cảm với vitamin A.
Tránh dùng vitamin A liều cao hoặc kéo dài đối với phụ nữ có thai.
Chế phẩm
Liều dùng: tùy thuộc vào tình trạng của người bệnh.
Phòng ngừa thiếu vitamin A: 5.000 – 10.000 IU/ngày. Điều trị: 30.000 IU/ngày dùng trong 1 tuần.
Với những trường hợp bệnh nhân thiếu nặng, có tổn thương dùng với liều 20.000 IU/kg/ngày, và dùng ít nhất 5 ngày liên tục.
Có thể dùng liều cao cách quãng như sau:
Vitamin D được coi như là 1 hormone vì chúng được tổng hợp dưới da, đi vào máu và tới các cơ quan đích gây nên tác dụng thông qua receptor đặc hiệu.
Vitamin D có nhiều trong thức ăn từ động vật như sữa, bơ, dầu gan cá.. Ngoài ra còn có trong một số loài cây như cây họ cà, đặc biệt là solanum glaucophyllum.
Trong cơ thể người, vitamin D3 (Cholecalciferol) được tổng hợp từ 7- dehydrocholesterol ở các tế bào dưới da nhờ vào ánh sáng tử ngoại. Nếu da được tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời thì lượng vitamin D3 được tạo ra từ các tế bào dưới da có thể cung cấp đủ nhu cầu về vitamin D cho cơ thể.
Vitamin D2 (Ergocalciferol) có nguồn gốc tổng hợp từ ergosterol – chất tiền thân của vitamin D2 – có trong nấm và men bia.
Về hoạt tính thì nhìn chung không có sự khác nhau nhiều giữa vitamin D2 và D3.
Hấp thu: Vitamin D được hấp thu tốt ở ruột non nhờ muối mật và lipid.
Phân bố: Trong cơ thể, vitamin D liên kết với alpha globulin huyết tương, và được tích lũy ở gan, mô mỡ.
Chuyển hóa: vitamin D sau khi hấp thu được chuyển hóa ở gan và thận thông qua enzym hydroxylase. Quá trình chuyển hóa tạo thành 1,25 – dihydroxycholecalciferol – chất chuyển hoá có hoạt tính.
Thải trừ: vitamin D được thải trừ chủ yếu qua mật, một phần nhỏ thải qua nước tiểu. Chất mẹ và chất chuyển hóa có chu kỳ gan ruột.
Tham gia vào quá trình tạo xương: vitamin D tham gia vào quá trình chuyển hoá calci và phosphat, vì vậy chúng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xương. Vitamin D làm tăng tích tụ calci trong xương và giảm bài tiết phosphat ở ruột, giúp chuyển hóa phosphat hữu cơ thành phosphat vô cơ. Do đó, vitamin D rất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ em.
Điều hòa nồng độ calci trong máu: giúp cho nồng độ calci máu luôn hằng định (cũng theo các cơ chế trên). Nếu các quá trình trên không cung cấp đủ calci, làm nồng độ calci máu giảm thì vitamin D (kết hợp với hormon tuyến cận giáp) sẽ huy động calci từ xương ra.
Ngoài ra, vitamin D còn tham gia quá trình biệt hoá tế bào biểu mô và gần đây đang nghiên cứu về tác dụng ức chế tăng sinh tế bào ung thư như ung thư tuyến tiết melanin, ung thư vú….
Khi thiếu vitamin D, làm giảm hấp thu calci trong ruột, dẫn đến giảm calci máu. Lúc này, cơ thể có cơ chế bù trừ bằng cách huy động calci từ xương ra để ổn định nồng độ calci máu. Do đó, có thể khiến trẻ em bị còi xương, chậm lớn, người lớn nguy cơ loãng xương… Phụ nữ mang thai khi thiếu vitamin D có thể sinh ra trẻ khuyết tật ở xương.
Vitamin D được chỉ định trong các trường hợp sau:
Một số tác dụng không mong muốn có thể xuất hiện trên lâm sàng trong quá trình sử dụng sản phẩm vitamin D:
Tăng calci máu.
Bệnh cấp tính ở gan thận.
Lao phổi đang tiến triển.
Mẫn cảm với vitamin D.
Chế phẩm:
Liều dùng:
Vitamin E gồm có 3 dạng là alpha, beta, gamma – tocoferol. Chúng có cấu trúc và tác dụng dược lý tương tự nhau. Trong đó alpha – tocoferol có hoạt tính mạnh nhất, chiếm 90% lượng tocopherol trong mô. Hoạt tính của 1 mg alpha – tocoferol bằng 1 đơn vị vitamin E.
Vitamin E có nhiều trong các loại hạt ngũ cốc, lúa mì, dầu ô liu, rau xanh, lòng đỏ trứng…
Hàm lượng vitamin E trong:
Cũng như các vitamin khác cùng nhóm, Vitamin E được hấp thu tốt qua niêm mạc ruột nhờ tác dụng nhũ hóa của acid mật. Sau khi vào cơ thể, vitamin E liên kết với lipoprotein huyết tương, phân bố rộng rãi vào các mô, tích lũy nhiều ở gan và các mô mỡ. Thải trừ chủ yếu qua phân.
Vitamin E có tác dụng chống oxy hóa, giúp bảo vệ màng tế bào trước sự oxy hóa của các gốc tự do, nhờ đó đảm bảo được tính toàn vẹn của màng tế bào. Vitamin E hiệp đồng tác dụng với các vitamin và hợp chất khác như vitamin C, selen, vitamin A và các caroten. Đặc biệt vitamin E làm bền vững vitamin A, giúp bảo vệ nó trước các tác nhân oxy hóa.[3]
Khi thiếu vitamin E, người bệnh dễ mắc các chứng: rối loạn thần kinh, yếu cơ, nhãn cầu bị rung giật, xúc giác giảm độ nhạy cảm, dễ tổn thương da, dễ vỡ hồng cầu, dễ tổn thương cơ và tim. Đặc biệt, khi thiếu vitamin E trên cơ quan sinh sản, thấy tổn thương cơ quan sinh dục, gây vô sinh. Vì vậy ngày nay thường phối hợp vitamin E với các thuốc khác để điều trị vô sinh ở nam và nữ, sẩy thai, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tim mạch…
Tuy nhiên, chưa có bằng chứng nào chứng minh các tổn thương trên chỉ là do thiếu vitamin E gây nên và cũng chưa chứng minh được hiệu quả điều trị của vitamin E trên các bệnh này.
Dùng phòng và điều trị với những trường hợp thiếu vitamin E.
Kết hợp với vitamin A, Vitamin C và selen dùng làm thuốc chống oxy hóa trong các bệnh tim mạch như xơ vữa động mạch, tăng lipoprotein huyết….
Ngoài ra có thể dùng phối hợp điều trị doạ sẩy thai, sẩy thai liên tiếp, vô sinh, thiểu năng tạo tinh trùng, rối loạn thời kỳ tiền mãn kinh, cận thị tiến triển, thiếu máu tan máu, teo cơ, loạn dưỡng cơ; dùng ngoài để ngăn tác hại của tia cực tím.
Vitamin E ít khi gây tác dụng không mong muốn.
Các phản ứng có thể gặp là buồn nôn, nôn, đầy hơi, tiêu chảy, đau đầu, chóng mặt.
Chế phẩm:
Liều dùng:
Vitamin K là một trong những vitamin tan trong dầu, được tổng hợp ở gan. Có 4 loại vitamin K như sau:
Vitamin K là vitamin tan trong dầu, hấp thu qua ruột nhờ tác dụng nhũ hóa của acid mật, dịch tụy. Loại vitamin K tổng hợp tan được ở trong nước, vào được tuần hoàn. Thuốc qua máu tới gan. Xuất hiện tác dụng sau tiêm 1 – 2 giờ hoặc sau uống 6 – 12 giờ và kéo dài 8 – 12 giờ. Vitamin K thải qua mật, dưới dạng liên hợp với acid glucuronic và một phần thải qua thận (15%).
Vitamin K giúp cho gan tổng hợp các yếu tố đông máu như yếu tố II (prothrombin), VII, IX, X. Vitamin K kích hoạt hệ thống enzym microsom gan, carboxyl hoá PIVKA để chuyển thành các yếu tố đông máu II, VII, IX, X có hoạt tính. Các yếu tố đó kết hợp với Ca++ trên bề mặt tiểu cầu, chuyển fibrinogen thành fibrin cùng với xúc tác của thrombin tạo nên quá trình đông máu..[4]
Dùng cho những người thiếu vitamin K do các nguyên nhân khác nhau như:
Vitamin K3 có liều độc gấp 100 lần liều điều trị. Tuy nhiên, ở trẻ em dưới 30 tháng tuổi nếu sử dụng vitamin K có thể gặp thiếu máu tan máu và chết do vàng da tan máu.
Tiêm bắp: có thể gây chai cứng vùng tiêm.
Tiêm tĩnh mạch: phải tiêm thật chậm, nếu nhanh sẽ gây co thắt khí quản, tim đập nhanh, tím tái, tụt huyết áp, toát mồ hôi, đỏ bừng mặt.
Trẻ sơ sinh thiếu tháng dùng liều cao (> 5mg/ kg/ngày) gây tăng bilirubin huyết, thiếu máu tan máu.
Vitamin K3, K4 hay gây rối loạn tiêu hoá: chúng gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hoá, dẫn đến cảm giác buồn nôn, nôn. Kích ứng niêm mạc thận gây xuất hiện Albumin niệu và làm nặng thêm bệnh gan ở người suy gan. Gây tan máu ở những người thiếu G6PD.
Không dùng trong những trường hợp chảy máu mà nguyên nhân không phải do thiếu vitamin K, ví dụ như: chảy máu mất máu trong chấn thương, trong chảy máu đường tiêu hóa nặng do viêm, loét dạ dày – tá tràng hoặc thủng dạ dày; sốc mất máu…
Phytonadione (Vitamin K1, Phylloquinone, Phytomenadione) viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/ mL, 10mg/mL. Tùy theo từng chỉ định mà sử dụng với liều khác nhau. Trung bình 10 – 20mg/ngày.
Menadione (Vitamin K3): viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/lmL.
Menadiol natri diphosphat (Vitamin K4): viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/ lmL. Uống, tiêm dưới da, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, liều trung bình 15 – 20mg/ngày.
Hy vọng với những thông tin trong bài viết sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vai trò cũng như các chế phẩm vitamin tan trong dầu. Chúc các bạn biết cách bổ sung vitamin phù hợp.
Vitamin là một trong những chất thiết yếu cho hoạt động sống của cơ thể. Vậy cụ thể vitamin tan trong dầu cần thiết với cơ thể chúng ta như thế nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Khi nhắc đến các vitamin tan trong dầu, thứ nhất chúng là các vitamin, thứ 2 là những chất này có đặc điểm tan trong dầu.
Như vậy, vitamin tan trong dầu là những hợp chất hữu cơ mà đa phần cơ thể chúng ta không tự tổng hợp được, chúng không tan trong môi trường nước, tan được trong dầu.
Những vitamin này được dùng với lượng rất nhỏ để đảm bảo cho sự phát triển và hoạt động bình thường của cơ thể.
Các vitamin tan trong dầu bao gồm các vitamin: A, D, E, K.
Hấp thu cùng với các chất mỡ vào vòng tuần hoàn chung, do đó khi cơ thể không hấp thu được mỡ thì sẽ không hấp thu được các vitamin tan trong dầu.
Trong quá trình hấp thu các vitamin này, cần phải có acid mật làm chất nhũ hoá vì mỡ không tan được trong máu. Vậy nên, muốn hấp thu tốt các vitamin này thì nên uống trong hoặc ngay sau bữa ăn.
Các vitamin tan trong dầu tương đối bền vững với nhiệt, không bị phá hủy trong quá trình nấu nướng.
Các vitamin tan trong dầu có thể được tích lũy ở gan và mô mỡ.
Do chúng được tích lũy trong cơ thể nên các triệu chứng thiếu thường xuất hiện chậm, vì vậy không cần bổ sung hàng ngày dưới dạng thuốc.
Vitamin là các chất thiết yếu cho sự sinh trưởng và hoạt động của cơ thể. Khi thiếu các vitamin tan trong dầu, khiến cho các hoạt động của cơ thể không còn khỏe mạnh và gây ra các bệnh như: khô mắt, quáng gà khi thiếu vitamin A, hay bệnh còi xương chậm lớn khi thiếu vitamin D, và nhiều bệnh khác cụ thể sẽ được nêu rõ ở phần dưới.
Khi dùng liều cao, kéo dài sẽ gây độc tính, cơ thể nhiễm độc, đặc biệt là vitamin A và D. Bởi vì khi quá liều, cơ thể sẽ không thể thải trừ hết qua thận, chúng sẽ tích lũy vào gan và các mô mỡ.
Vitamin A có nhiều trong cả động vật và thực vật.
Trong động vật thì vitamin A có nhiều trong gan cá thu, trứng, thịt, cá, sữa…
Ở thực vật, vitamin A xuất hiện nhiều trong gấc, cà chua, cà rốt và rau xanh. Trong rau quả, chúng tồn tại dưới dạng caroten (còn gọi là tiền vitamin A). Hiện nay, có 3 loại caroten là alpha caroten, beta caroten và gamma caroten, trong đó phổ biến nhất và có hoạt tính mạnh nhất là beta-caroten. Khi đưa vào cơ thể, dưới sự xúc tác của enzym carotenase, các caroten chuyển thành vitamin A.[1]
Hiện nay vitamin A còn được tạo ra bằng phương pháp tổng hợp hóa học.
Hoạt tính của vitamin A được xác định bằng đơn vị quốc tế.
1 đơn vị quốc tế bằng 0,3 microgam vitamin A hoặc 0,6 microgam beta-caroten.
Vitamin A hấp thu có thể được qua đường uống và tiêm. Tuy nhiên, cơ thể phải có đủ acid mật làm chất nhũ hoá thì vitamin A mới hấp thu qua đường tiêu hoá được. Khả năng liên kết của Vitamin A với protein huyết tương thấp, chủ yếu là alpha- globulin, chúng phân bố vào các tổ chức của cơ thể. Được dự trữ nhiều nhất ở gan, thải trừ qua thận và mật.
Với mắt
Vitamin A có vai trò quan trọng trong hoạt động thị giác, giúp mắt nhìn được trong điều kiện thiếu ánh sáng. Đó là do vitamin A giúp tạo ra sắc tố võng mạc. Đây cũng chính là tác dụng quan trọng nhất của vitamin A.
Cơ chế: Khi ở trong bóng tối vitamin A sẽ kết hợp với opsin hình thành nên sắc tố võng mạc có tên là rhodopsin. Đây là sắc tố nhạy cảm với ánh sáng có cường độ thấp ở tế bào hình nón của võng mạc, sẽ giúp mắt ta nhận được các hình ảnh trong điều kiện thiếu ánh sáng. Và khi ra ánh sáng, rhodopsin lại phân hủy giải phóng ra opsin và trans – retinal. Sau đó trans – Retinal lại chuyển thành dạng cis – retinal hoặc dạng trans – retinal và tiếp tục đi vào chu kỳ của sự nhìn. Do đó nếu thiếu vitamin A, khả năng quan sát trong bóng tối sẽ giảm, gây ra bệnh quáng gà, nếu như không điều trị kịp thời có thể dẫn đến nguy cơ mù lòa.
Trên biểu mô và tổ chức da
Vitamin A rất cần thiết cho quá trình biệt hoá ở các tế bào biểu mô ở da và niêm mạc. Kích thích biệt hóa tế bào biểu mô, sinh tăng tiết nhầy và ức chế sự sừng hóa ở tế bào biểu mô.
Nếu thiếu vitamin A, cơ thể sẽ giảm hoặc mất cơ chế bài tiết chất nhầy, đồng thời biểu mô bị teo lại, cùng với đó các lớp keratin dày, lên làm da trở lên khô, nứt nẻ và sần sùi. Ngoài ra, ở những người này còn tăng nhạy cảm với các chất gây ung thư. Không những thế, các tế bào nền của biểu mô tăng sản rõ rệt, giảm khả năng biệt hóa.
Trên xương: vitamin A và vitamin D, có vai trò quan trọng cho sự phát triển xương và tham gia vào quá trình phát triển cơ thể, đặc biệt là ở trẻ em. Do đó, nếu thiếu vitamin A thì trẻ em sẽ còi xương, chậm lớn.
Trên hệ miễn dịch: vitamin A làm tăng sức đề kháng của cơ thể với vi khuẩn, vi rút và ký sinh trùng. Khi thiếu vitamin A cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn và dễ nhạy cảm với tác nhân gây ung thư.
Ngoài ra, khi thiếu vitamin A còn dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp, tiết niệu, sinh dục.
Dự phòng và điều trị các bệnh do thiếu vitamin A như:
Chủ yếu gặp khi dùng liều cao hoặc dùng dài ngày.
Ngộ độc cấp tính: khi dùng liều rất cao. Người lớn với liều trên 1.500.000 IU mỗi ngày. Trẻ em với liều trên 300.000 IU mỗi ngày. Người bị ngộ độc có các biểu hiện sau: hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, nôn, kích thích, nhức đầu, mê sảng, co giật, tiêu chảy. Trẻ nhỏ có thể phồng thóp, co giật. Các triệu chứng thường xuất hiện sau khi dùng thuốc từ 4 – 6 giờ.
Ngộ độc mãn tính: khi dùng liều cao > 100.000 IU/ngày liên tục 10 – 15 ngày. Khi người bệnh bị ngộ độc mãn tính sẽ xuất hiện các triệu chứng như sau là: mệt mỏi, dễ bị kích thích, chán ăn, sụt cân, nôn, rối loạn tiêu hoá, sốt, gan to, lách to, da khô tróc vảy, rụng tóc, tóc, chảy máu, thiếu máu, nhức đầu, tăng calci máu, phù nề, đau nhức xương khớp.
Trẻ em có thể tăng áp lực nội sọ, ù tai, ngừng hoặc giảm khả năng phát triển xương dài, chậm lớn do các đầu xương bị cốt hoá quá sớm.
Phụ nữ có thai dùng liều cao, liên tục có thể gây quái thai.
Không dùng với những trường hợp thừa vitamin A và người mẫn cảm với vitamin A.
Tránh dùng vitamin A liều cao hoặc kéo dài đối với phụ nữ có thai.
Chế phẩm
Liều dùng: tùy thuộc vào tình trạng của người bệnh.
Phòng ngừa thiếu vitamin A: 5.000 – 10.000 IU/ngày. Điều trị: 30.000 IU/ngày dùng trong 1 tuần.
Với những trường hợp bệnh nhân thiếu nặng, có tổn thương dùng với liều 20.000 IU/kg/ngày, và dùng ít nhất 5 ngày liên tục.
Có thể dùng liều cao cách quãng như sau:
Vitamin D được coi như là 1 hormone vì chúng được tổng hợp dưới da, đi vào máu và tới các cơ quan đích gây nên tác dụng thông qua receptor đặc hiệu.
Vitamin D có nhiều trong thức ăn từ động vật như sữa, bơ, dầu gan cá.. Ngoài ra còn có trong một số loài cây như cây họ cà, đặc biệt là solanum glaucophyllum.
Trong cơ thể người, vitamin D3 (Cholecalciferol) được tổng hợp từ 7- dehydrocholesterol ở các tế bào dưới da nhờ vào ánh sáng tử ngoại. Nếu da được tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời thì lượng vitamin D3 được tạo ra từ các tế bào dưới da có thể cung cấp đủ nhu cầu về vitamin D cho cơ thể.
Vitamin D2 (Ergocalciferol) có nguồn gốc tổng hợp từ ergosterol – chất tiền thân của vitamin D2 – có trong nấm và men bia.
Về hoạt tính thì nhìn chung không có sự khác nhau nhiều giữa vitamin D2 và D3.
Hấp thu: Vitamin D được hấp thu tốt ở ruột non nhờ muối mật và lipid.
Phân bố: Trong cơ thể, vitamin D liên kết với alpha globulin huyết tương, và được tích lũy ở gan, mô mỡ.
Chuyển hóa: vitamin D sau khi hấp thu được chuyển hóa ở gan và thận thông qua enzym hydroxylase. Quá trình chuyển hóa tạo thành 1,25 – dihydroxycholecalciferol – chất chuyển hoá có hoạt tính.
Thải trừ: vitamin D được thải trừ chủ yếu qua mật, một phần nhỏ thải qua nước tiểu. Chất mẹ và chất chuyển hóa có chu kỳ gan ruột.
Tham gia vào quá trình tạo xương: vitamin D tham gia vào quá trình chuyển hoá calci và phosphat, vì vậy chúng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xương. Vitamin D làm tăng tích tụ calci trong xương và giảm bài tiết phosphat ở ruột, giúp chuyển hóa phosphat hữu cơ thành phosphat vô cơ. Do đó, vitamin D rất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ em.
Điều hòa nồng độ calci trong máu: giúp cho nồng độ calci máu luôn hằng định (cũng theo các cơ chế trên). Nếu các quá trình trên không cung cấp đủ calci, làm nồng độ calci máu giảm thì vitamin D (kết hợp với hormon tuyến cận giáp) sẽ huy động calci từ xương ra.
Ngoài ra, vitamin D còn tham gia quá trình biệt hoá tế bào biểu mô và gần đây đang nghiên cứu về tác dụng ức chế tăng sinh tế bào ung thư như ung thư tuyến tiết melanin, ung thư vú….
Khi thiếu vitamin D, làm giảm hấp thu calci trong ruột, dẫn đến giảm calci máu. Lúc này, cơ thể có cơ chế bù trừ bằng cách huy động calci từ xương ra để ổn định nồng độ calci máu. Do đó, có thể khiến trẻ em bị còi xương, chậm lớn, người lớn nguy cơ loãng xương… Phụ nữ mang thai khi thiếu vitamin D có thể sinh ra trẻ khuyết tật ở xương.
Vitamin D được chỉ định trong các trường hợp sau:
Một số tác dụng không mong muốn có thể xuất hiện trên lâm sàng trong quá trình sử dụng sản phẩm vitamin D:
Tăng calci máu.
Bệnh cấp tính ở gan thận.
Lao phổi đang tiến triển.
Mẫn cảm với vitamin D.
Chế phẩm:
Liều dùng:
Vitamin E gồm có 3 dạng là alpha, beta, gamma – tocoferol. Chúng có cấu trúc và tác dụng dược lý tương tự nhau. Trong đó alpha – tocoferol có hoạt tính mạnh nhất, chiếm 90% lượng tocopherol trong mô. Hoạt tính của 1 mg alpha – tocoferol bằng 1 đơn vị vitamin E.
Vitamin E có nhiều trong các loại hạt ngũ cốc, lúa mì, dầu ô liu, rau xanh, lòng đỏ trứng…
Hàm lượng vitamin E trong:
Cũng như các vitamin khác cùng nhóm, Vitamin E được hấp thu tốt qua niêm mạc ruột nhờ tác dụng nhũ hóa của acid mật. Sau khi vào cơ thể, vitamin E liên kết với lipoprotein huyết tương, phân bố rộng rãi vào các mô, tích lũy nhiều ở gan và các mô mỡ. Thải trừ chủ yếu qua phân.
Vitamin E có tác dụng chống oxy hóa, giúp bảo vệ màng tế bào trước sự oxy hóa của các gốc tự do, nhờ đó đảm bảo được tính toàn vẹn của màng tế bào. Vitamin E hiệp đồng tác dụng với các vitamin và hợp chất khác như vitamin C, selen, vitamin A và các caroten. Đặc biệt vitamin E làm bền vững vitamin A, giúp bảo vệ nó trước các tác nhân oxy hóa.[3]
Khi thiếu vitamin E, người bệnh dễ mắc các chứng: rối loạn thần kinh, yếu cơ, nhãn cầu bị rung giật, xúc giác giảm độ nhạy cảm, dễ tổn thương da, dễ vỡ hồng cầu, dễ tổn thương cơ và tim. Đặc biệt, khi thiếu vitamin E trên cơ quan sinh sản, thấy tổn thương cơ quan sinh dục, gây vô sinh. Vì vậy ngày nay thường phối hợp vitamin E với các thuốc khác để điều trị vô sinh ở nam và nữ, sẩy thai, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tim mạch…
Tuy nhiên, chưa có bằng chứng nào chứng minh các tổn thương trên chỉ là do thiếu vitamin E gây nên và cũng chưa chứng minh được hiệu quả điều trị của vitamin E trên các bệnh này.
Dùng phòng và điều trị với những trường hợp thiếu vitamin E.
Kết hợp với vitamin A, Vitamin C và selen dùng làm thuốc chống oxy hóa trong các bệnh tim mạch như xơ vữa động mạch, tăng lipoprotein huyết….
Ngoài ra có thể dùng phối hợp điều trị doạ sẩy thai, sẩy thai liên tiếp, vô sinh, thiểu năng tạo tinh trùng, rối loạn thời kỳ tiền mãn kinh, cận thị tiến triển, thiếu máu tan máu, teo cơ, loạn dưỡng cơ; dùng ngoài để ngăn tác hại của tia cực tím.
Vitamin E ít khi gây tác dụng không mong muốn.
Các phản ứng có thể gặp là buồn nôn, nôn, đầy hơi, tiêu chảy, đau đầu, chóng mặt.
Chế phẩm:
Liều dùng:
Vitamin K là một trong những vitamin tan trong dầu, được tổng hợp ở gan. Có 4 loại vitamin K như sau:
Vitamin K là vitamin tan trong dầu, hấp thu qua ruột nhờ tác dụng nhũ hóa của acid mật, dịch tụy. Loại vitamin K tổng hợp tan được ở trong nước, vào được tuần hoàn. Thuốc qua máu tới gan. Xuất hiện tác dụng sau tiêm 1 – 2 giờ hoặc sau uống 6 – 12 giờ và kéo dài 8 – 12 giờ. Vitamin K thải qua mật, dưới dạng liên hợp với acid glucuronic và một phần thải qua thận (15%).
Vitamin K giúp cho gan tổng hợp các yếu tố đông máu như yếu tố II (prothrombin), VII, IX, X. Vitamin K kích hoạt hệ thống enzym microsom gan, carboxyl hoá PIVKA để chuyển thành các yếu tố đông máu II, VII, IX, X có hoạt tính. Các yếu tố đó kết hợp với Ca++ trên bề mặt tiểu cầu, chuyển fibrinogen thành fibrin cùng với xúc tác của thrombin tạo nên quá trình đông máu..[4]
Dùng cho những người thiếu vitamin K do các nguyên nhân khác nhau như:
Vitamin K3 có liều độc gấp 100 lần liều điều trị. Tuy nhiên, ở trẻ em dưới 30 tháng tuổi nếu sử dụng vitamin K có thể gặp thiếu máu tan máu và chết do vàng da tan máu.
Tiêm bắp: có thể gây chai cứng vùng tiêm.
Tiêm tĩnh mạch: phải tiêm thật chậm, nếu nhanh sẽ gây co thắt khí quản, tim đập nhanh, tím tái, tụt huyết áp, toát mồ hôi, đỏ bừng mặt.
Trẻ sơ sinh thiếu tháng dùng liều cao (> 5mg/ kg/ngày) gây tăng bilirubin huyết, thiếu máu tan máu.
Vitamin K3, K4 hay gây rối loạn tiêu hoá: chúng gây kích ứng niêm mạc đường tiêu hoá, dẫn đến cảm giác buồn nôn, nôn. Kích ứng niêm mạc thận gây xuất hiện Albumin niệu và làm nặng thêm bệnh gan ở người suy gan. Gây tan máu ở những người thiếu G6PD.
Không dùng trong những trường hợp chảy máu mà nguyên nhân không phải do thiếu vitamin K, ví dụ như: chảy máu mất máu trong chấn thương, trong chảy máu đường tiêu hóa nặng do viêm, loét dạ dày – tá tràng hoặc thủng dạ dày; sốc mất máu…
Phytonadione (Vitamin K1, Phylloquinone, Phytomenadione) viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/ mL, 10mg/mL. Tùy theo từng chỉ định mà sử dụng với liều khác nhau. Trung bình 10 – 20mg/ngày.
Menadione (Vitamin K3): viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/lmL.
Menadiol natri diphosphat (Vitamin K4): viên nén 5mg, ống tiêm 2mg/ lmL. Uống, tiêm dưới da, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, liều trung bình 15 – 20mg/ngày.
Hy vọng với những thông tin trong bài viết sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vai trò cũng như các chế phẩm vitamin tan trong dầu. Chúc các bạn biết cách bổ sung vitamin phù hợp.
(162)
(3)
(0)
(0)
(0)
(24)
(4469)
(2)